
- Chỉ biết rằng Lục Bát là thể thơ lâu đời nhất của người Việt. Từ khi chúng ta chưa có chữ Quốc Ngữ như bây giờ...xa xôi hơn là khi dùng chữ Nôm, chữ Hán...thậm chí không có ngôn ngữ mà chỉ là truyền miệng bằng lời nói trong dân gian Lục Bát đã tồn tại trong ca dao, tục ngữ.
- Trải qua hàng ngàn đời, được vô số những thi nhân đúc kết và lưu truyền đến ngày nay. Lục Bát không cầu kỳ về niêm luật, hay gò đối như thơ Đường luật nhưng cũng có một số quy định về vị trí gieo vần và thanh luật.
+ BẰNG: HUYỀN, NGANG (không có dấu)
+ TRẮC: HỎI, NẶNG, SẮC, NGÃ.
+ PHÙ BÌNH THANH (cao, bổng) gồm Ngang, Sắc, Ngã.
+ TRẦM BÌNH THANH (thấp, trầm) gồm Huyền, Hỏi, Nặng.
- Lục Bát là một thể thơ quy định số từ trong câu mở đầu gồm 6 từ (câu Lục)...câu kế tiếp là 8 từ (câu Bát)...rồi lại trở về câu 6 từ, lại câu 8 từ. (Riêng câu kết thúc không nhất định phải là một câu 8 )
C8. 1 2 3 4 5 6 (vần) 7 8(vần 1)
C6. 1 2 3 4 5 6 (vần 1)
C8. 1 2 3 4 5 6 (vần 1) 7 8.
(Từ đây nẩy sinh ra một lỗi bệnh của thơ LB...đó chính là phải tránh ở vị trí 6&8 của câu Bát không được để từ TRÙNG VẦN với nhau. Bởi nó sẽ dẫn tới 5 câu liên tiếp sử dụng một vần duy nhất.)
Biết đời ảo diệu thoảng như gió (trời)
Mà sao giây phút xa (rời)
Tâm còn lưu luyến khóc (NGƯỜI) tàn (HƠI)
Mưa ngoài trắng núi trắng (trời)
Mưa trong lòng cứ tơi (bời) trào tuôn"
(Q.P)
- Có nghĩa từ ở vị trí thứ 4 trong mỗi câu phải mang thanh trắc (điều này là bắt buộc...nếu vị trí đó sử dụng từ mang thanh bằng kể như "thất luật" rồi). Từ ở vị trí thứ 6 và 8 (câu bát mới có) là thanh bằng... Nghiễm nhiên phải thế bởi thơ lb chỉ yếu gieo vần bằng. (dù biến thể của thơ lb có cả gieo vần trắc nữa).
+ Nếu từ thứ 6 mang thanh Ngang, từ thứ 8 phải mang thanh Huyền.
+ Nếu từ thứ 6 mang thanh Huyền, từ thứ 8 phải mang thanh Ngang.
(đây có thể gọi là luật "tiểu đối thanh bằng" trong câu bát.)
Thổi cho cánh lá...rụng ĐẦY khắp ĐƯỜNG"
C8. X B X T X B X B
C6. X B X T X B
C8. X B X T X B X B
B thanh bằng.
T thanh trắc.
+ Ở các vị trí X bất luận dùng từ và phân bổ thanh sao cho trong 28 từ số lượng bằng/trắc chênh nhau khoảng 15/13 hay 16/12.
+ Vị trí thứ 7 của câu bát dùng thanh trắc cố định đọc sẽ hay hơn.
(ĐIỀU NÀY KHÔNG PHẢI LÀ BẮT BUỘC)
- Dùng khi là danh từ riêng chỉ tên người, địa danh. (vd: Trần Tộc, Văn Quế...Đà Nẵng, Quảng Ngãi v.v)
- Dùng khi là danh từ chung chỉ ngôi nhân xưng (Mẹ, Chị, Bác, Chú..v.v)
Hình như tôi... bỗng chai lỳ khác xưa
Học thêm gian trá, lọc lừa
Lời ong bướm...vẫn đong đưa thật nhiều.
Thủy chung son sắt là điều viển vông
Ngày theo tán tỉnh má hồng
Đêm về lặng lẽ ngồi trông bóng mình.
(Em đi...chợt nghĩa với tình thành điêu).
No comments:
Post a Comment